Với Xiêm La Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn

Trong thời kỳ các chúa Nguyễn còn chiến tranh với Tây Sơn, Xiêm La đã lợi dụng cơ hội để phân chia đất Cao Miên năm 1779 dưới đời quốc vương Trịnh Quốc Anh (Phya Tak).

Năm 1794, Nặc Ấn lưu vong qua Vọng Các rồi được vua Xiêm cho một đạo quân đưa về nước nhưng hai tỉnh BattambangAngkor phải nhượng cho nước Xiêm. Nặc Ấn mất năm 1796. Năm 1802 Miên mới có vua là Nặc Ông Chân, con Nặc Ông Ấn. Tuy đă thần phục Xiêm La, Ông Chân vẫn cử sứ đoàn ra chầu vua Gia Long tại Thăng Long. Từ năm 1805 Miên thần phục triều đình Việt nhưng năm sau lại sang Vọng Các thụ phong tiếp.

Người Xiêm không tán thành chính sách nước đôi này nên ngầm giúp Nặc Ông Nguyên, em của Ông Chân, nổi loạn. Ông Chân phải chạy sang cầu cứu triều Nguyễn. Xiêm liền tiến quân đánh thành La Bích (Lovek). Vua Gia Long cử Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành dẫn 10.000 quân hộ vệ đưa Ông Chân trở về nước khiến Xiêm và Nặc Ông Nguyên phải rút lui. Lê Văn Duyệt sau đó đặt chế độ bảo hộ trên đất Miên từ đấy và xây thành Nam Vang và thành La Lem. Sau đó vua cử Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân sang trấn giữ xứ này như một thuộc quốc.

Dù có xung đột nhưng việc giao thiệp giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm. Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng đặt ảnh hưởng, Quốc vương Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Dân vùng Cam Lộ, dân ở các vùng Cao nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, người Thượng (tức người Rhadé) ở các nước Thủy Xá và Hỏa Xá cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền của triều Nguyễn[3].

Năm 1827, Quân Xiêm La đánh Vạn Tượng khiến quốc vương xứ này là A Nộ chống không nổi phải sang cầu cứu triều đình Việt Nam. Vua Minh Mạng cho Thống chế Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp nhưng bị quân Xiêm đánh bại. Năm 1828 Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục đem 3.000 quân và 24 con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane) nhưng đạo quân của nhà Nguyễn và A Nộ lại bị thua phải xin viện binh Nghệ An. Vua Minh Mạng chán việc này hạ lệnh bãi bỏ và chỉ còn phòng vệ vùng biên giới. Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị bắt nộp cho Xiêm La[4].

Quân Xiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị. Thống chế Phạm Văn ĐiểnTham tán Quân vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân nhà Nguyễn ở Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi thư cho họ để trách cứ. Xiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân về. Tuy vậy họ vẫn bí mật giúp người Chân Lạp nổi lên chống lại chính quyền Đại Nam hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các xứ quy phụ triều đình.

Cuối năm 1833, nước Xiêm mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp theo lời kêu gọi của Lê Văn Khôi. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì "Xiêm La từ khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học với Việt Nam, lúc không sinh sự được với ta thì lại quay ra quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy ra trên đất Việt Nam liền nắm ngay cơ hội để xâm lấn"[4].